Y học và đời sống

Đau bụng cẩn thận với u nang tụy

  • Tác giả : Thúy Nga
(khoahocdoisong.vn) - U nang tụy thường gặp, có thể lành tính, có thể ác tính hoặc tiến triển ác tính. Bệnh không có biểu hiện nên cần chú ý để phát hiện sớm. Tìm ra bản chất của u nang tụy quyết định sự sống của người bệnh.

Bệnh khó phát hiện nhưng rất nguy hiểm

U nang tụy rất thường gặp, chiếm 0,7 – 24,3% dân số. Đó là bất thường, túi nang giống như chất lỏng trên hoặc bên trong tuyến tụy. Trong thực tế, nhiều u nang tuyến tụy không phải tất cả là nang. Gọi là nang dịch tụy, những túi chất lỏng (lành tính) không phải ung thư không được lót bằng các loại tế bào được tìm thấy trong các u nang thực sự, thay vào đó, với mô viêm hoặc sẹo.

Đa số các tổn thương nang không có triệu chứng, đa phần được phát hiện tình cờ. Trước kia khi các phương tiện chẩn đoán hình ảnh chưa phát triển, bệnh nhân đến viện ở giai đoạn muộn của bệnh với các triệu chứng rõ ràng: Liên tục đau bụng, có thể lan tới lưng; Một khối có thể cảm thấy ở bụng trên, nơi vị trí tuyến tụy; Buồn nôn và ói mửa; U nang có thể bị nhiễm trùng, nên gặp bác sĩ nếu đang sốt và đau bụng liên tục.

U nang vỡ là một cấp cứu y tế. Khi vỡ u nang, dịch phát hành có thể làm hỏng các mạch máu gần đó và gây chảy máu nặng. Nó cũng có thể gây nhiễm trùng ổ bụng (viêm phúc mạc). Biểu hiện: bệnh nhân bất tỉnh, cơn đau nặng, giảm ý thức, yếu và nhịp tim đập nhanh, nôn ra máu.

Trong nhiều trường hợp, nguyên nhân của u nang tụy là chưa biết. Gen đột biến có thể dẫn đến u ung thư. Một số u nang có liên quan với căn bệnh hiếm gặp - chẳng hạn như bệnh von Hippel-Lindau, là một rối loạn di truyền có thể ảnh hưởng đến não, võng mạc, tuyến thượng thận, thận và tuyến tụy. Đặc biệt, u nang thường theo sau một cơn viêm tụy, một tình trạng đau đớn, trong đó các enzym tiêu hóa của tuyến tụy sớm trở thành hoạt động và tiêu hóa một số chính các tuyến tụy. U nang cũng có thể là do chấn thương bụng, chẳng hạn như trong tai nạn xe hơi...

Tùy bản chất u mà điều trị

Chẩn đoán u nang tụy bằng siêu âm, chụp cắt lớp, cộng hưởng từ, nội soi và siêu âm nội soi... không những chẩn đoán sớm được bệnh mà còn có định hướng để đưa ra quyết định điều trị với các loại u khác nhau:

Nang thanh dịch: chiếm hơn 30% u nang tụy, thường ở thân, đuôi tụy hay ở phụ nữ trung niên, triệu chứng không rõ ràng có thể nang nhỏ hoặc ít nang nhưng nang lớn. Dịch trong nang trong hay có vách, có thể có vách, thành mỏng, có thể vôi hóa, ranh giới rõ với xung quanh, không thông với ống tụy, khả năng ác tính thấp.

Nang nhầy: chiếm khoảng 10% u nang tụy, thường có 1 u lớn, nhiều thùy, dịch nhầy, thành dày, không thông với ống tụy, khả năng ác tính của u này cao hơn nang thanh dịch.

Nang nhầy thể nhú trong ống tụy: Hay gặp ở nam giới cao tuổi, thường gặp ở đầu tụy, nang thông với ống tụy, khả năng ác tính cao (49 – 92%).

U đặc thể nhú: còn gọi là u Hamoudi hay u Franz. Đây là tên chung của nhiều loại u đặc ở vùng tiến triển dạng nang như u tế bào ống tụy, u thần kinh nội tiết, u tế bào tuyến… U gồm cả tổ chức đặc và tổ chức nang xen kẽ, có vùng hoại tử, chảy máu, có thể có canxi hóa. U phát triển chậm nhưng có khả năng ác tính và di căn hay gặp ở nữ giới trẻ tuổi.

Vì vậy, khi phát hiện u nang tụy nếu là nang thanh dịch nhỏ > 4 cm không triệu chứng thì có thể theo dõi vì khả năng ác tính thấp, khi u lớn hoặc có triệu chứng thì nên mổ cắt bỏ vì khả năng tiến triển ác tính cao.

Sử dụng rượu nặng và sỏi mật là yếu tố nguy cơ viêm tụy. Viêm tụy và là một yếu tố nguy cơ u nang - loại phổ biến nhất của u nang tuyến tụy.

ThS Trần Anh (Bệnh viện K)

Thúy Nga

BẢN DESKTOP