Y học và đời sống

Thuốc Đông y trị các giai đoạn áp xe gan

  • Tác giả : Thúy Nga
(khoahocdoisong.vn) - Áp xe gan thuộc phạm vi chứng can cung, là bệnh nguy hiểm. Nếu không phát hiện và điều trị kịp thời, gan sẽ biến thành ổ mủ, gây các biến chứng và tử vong.

Triệu chứng không đặc hiệu nên khó phát hiện

Áp xe gan là một bệnh nặng, có thể gây tử vong với tỷ lệ cao. Tác nhân gây bệnh có thể là vi khuẩn, amíp, nấm. Đường lây bệnh có thể theo đường máu hay đường mật hoặc lây lan trực tiếp bởi các ổ nhiễm khuẩn lân cận trong ổ bụng. Áp xe gan có thể chỉ là một ổ đơn độc, hoặc cũng có thể là nhiều ổ áp xe. Bệnh nếu không được điều trị kịp thời, ổ mủ bị vỡ ra và gây viêm nhiễm toàn bộ ổ bụng (viêm phúc mạc), hậu quả sau đó có thể là choáng (sốc), hôn mê và tử vong. Có khi ổ mủ vỡ ra và ăn thông lên phổi, chèn ép lên tim gây ra khó thở và bội nhiễm nặng nề hơn.

Theo YHCT, bệnh thuộc phạm vi chứng can cung. Các triệu chứng lâm sàng của bệnh thường không đặc hiệu. Đau là triệu chứng cơ năng thường gặp nhất (90%), kế đến là sốt (87%), nôn ói (85%), sụt cân (45%). Bệnh  có thể diễn tiến bán cấp hay cấp tính. Bán cấp (bệnh nhân đau âm ỉ hạ sườn phải, sốt nhẹ, chán ăn và sụt cân); cấp tính bệnh nhân đau hạ sườn phải ngày càng tăng, sốt, nôn ói và thường nhập viện trong vòng 10 ngày.

3 giai đoạn điều trị

Điều trị áp xe gan dựa vào triệu chứng và giai đoạn của bệnh. Nếu phát hiện sớm, điều trị kịp thời, đúng cách, bệnh sẽ phục hồi nhanh. Nếu không điều trị đúng hoặc kịp thời, gan sẽ biến thành ổ mủ to, có khi chứa trên 2-3 lít mủ mầu socola, tanh, không thối.  Bệnh nhân có thể cầm cự trong một thời gian khá dài nhưng sức khoẻ ngày càng suy kiệt. Áp xe sẽ tiến triển và gây ra các biến chứng: Rò vào cơ hoành, màng phổi, phổi, vỡ vào màng bụng, rất nguy hiểm, tử vong cao.

Giai đoạn nung mủ: Do can uất hoá hoả hoặc huyết ứ hoá nhiệt, thấp nhiệt nung nấu, ngưng kết ở can đởm lâu ngày gây nên. Biểu hiện, bệnh nhân nóng lạnh thất thường, hạ sườn bên phải đau, ấn vào đau hơn, không muốn nằm nghiêng, miệng khô, tiểu vàng, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng trắng, mạch huyền hoạt. Giai đoạn này tương ứng với giai đoạn viêm của y học hiện đại.

Điều trị bằng cách thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, tán kết. Bài thuốc Sài hồ thanh can tán gồm: cam thảo, sài hồ, hoàng liên, thanh bì, long đờm thảo, chi tử, liên kiều, sinh địa, xích thược, lượng bằng nhau, tán bột. Ngày uống 8-12g. Gia giảm: nếu hạ sườn phải đau thêm diên hồ sách, mộc hương; nếu sốt thêm bồ công anh, hạ khô thảo, vương bất lưu hành; Táo bón thêm đại hoàng (sống), mang tiêu.

Giai đoạn thành mủ: Do hoả độc mạnh, phần âm bị tổn thương, khí bị tiêu, huyết bị tổn hại gây nên. Người bệnh lạnh run, sốt cao, ra mồ hôi, hông sườn đầy, đau, đau lan đến bụng dưới hoặc nách, vai, miệng khát, tâm phiền, muốn nôn, nôn, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác. Ở giai đoạn này mủ hình thành, gan sưng trướng, hông sườn đau, thậm chí đau lan xuống bụng dưới hoặc lên nách, vai.

Điều trị: Thanh nhiệt, giải độc, khứ ứ, bài nùng. Bài thuốc Hoàng liên giải độc thang gia giảm: Chi tử 12g, sài hồ 8g, ý dĩ nhân 8g, hoàng cầm 12g, bại tương thảo 8g, đào nhân 8g, hoàng liên 12g, ngư tinh thảo 20g, hoàng bá 8g, đông qua nhân 8g, sắc uống.

 Nếu hôn mê, nói cuồng thêm ngưu hoàng, thanh tâm hoàn hoặc chí bảo đơn; Sắc mặt vàng, gầy ốm, tinh thần uỷ mị, mồ hôi tự ra thêm hoàng kỳ, đảng sâm, đương quy; Ho ói ra mủ, máu, áp xe bị vỡ thêm triết bối mẫu, cát cánh; Tiêu ra mủ, máu thêm bạch đầu ông, trần bì; Muốn nôn, nôn thêm tử diệp (lá tía tô), hoàng liên.

Giai đoạn tiềm phục: Do tà độc lâu ngày làm cho vị âm bất túc, tỳ dương hư tổn, khí huyết đều suy. Triệu chứng: Hạ sườn phải hơi đau, miệng hơi khô, lưỡi hồng, rêu lưỡi ít, mạch tế nhược.

Điều Trị: Ích khí, dưỡng huyết, giải độc. Bài thuốc: Thánh dũ thang” gồm: Bạch thược 30g, xuyên khung 30g, nhân sâm 30g, thục địa 30, đương quy 20g, hoàng kỳ 20g, bại tương thảo 20g, bồ công anh 30g, sắc uống. Lưỡi hồng, ít nước miếng thêm thiên hoa phấn, ngọc trúc; Bụng dưới trướng thêm cốc tinh thảo.

Lương y Nguyễn Hữu Toàn (Hội Đông y Hải Phòng)

Thúy Nga

BẢN DESKTOP