Giải pháp

Trồng lúa phát thải thấp, Nhà nước - nhà nông hưởng lợi

  • Tác giả : Phạm Hoa (t/h)
Ngân hàng Thế giới vừa công bố Báo cáo “Hướng tới Chuyển đổi Nông nghiệp Xanh ở Việt Nam: Chuyển sang mô hình lúa gạo carbon thấp”.

Tại Hội thảo công bố Báo cáo vừa diễn ra tại Thành phố Cần Thơ, bà Carolyn Turk, Giám Đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định: “Ngành nông nghiệp, cho dù đạt rất nhiều thành tựu, vẫn là nhân tố đóng góp quan trọng vào việc phát thải khí nhà kính ở Việt Nam.

Đã đến lúc bắt buộc phải chuyển đổi sang phương thức canh tác carbon thấp hơn – càng chần chừ lâu, chi phí sẽ càng cao. Kinh nghiệm cho thấy, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh thông qua phân bổ đầu tư công một cách chiến lược và tăng cường môi trường thuận lợi cho sự tham gia của khu vực tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp xanh và hiện đại”.

Bà Carolyn Turk, Giám Đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam và Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan tại Hội thảo công bố Báo cáo “Hướng tới Chuyển đổi Nông nghiệp Xanh ở Việt Nam: Chuyển sang mô hình lúa gạo carbon thấp”Bà Carolyn Turk, Giám Đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam và Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan tại Hội thảo công bố Báo cáo “Hướng tới Chuyển đổi Nông nghiệp Xanh ở Việt Nam: Chuyển sang mô hình lúa gạo carbon thấp”

Báo cáo chỉ ra, lúa gạo là mặt hàng nông nghiệp quan trọng nhất của Việt Nam và được trồng trên hơn một nửa diện tích đất nông nghiệp. Sản xuất lúa gạo hiện chiếm 48% lượng phát thải khí nhà kính của ngành nông nghiệp và hơn 75% lượng khí thải mê-tan. Năm nguyên nhân chính làm tăng phát thải KNK bao gồm: Thâm canh nông nghiệp không bền vững và chặt phá rừng; tỷ lệ bón phân cao; mức độ sử dụng nước cao cho tưới tiêu; quản lý không đúng cách phụ phẩm lúa như rơm rạ và trấu; sử dụng năng lượng kém hiệu quả trong nông nghiệp.

Biến đổi khí hậu là mối đe dọa lớn gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan và thường xuyên hơn ở Việt Nam, chẳng hạn như lũ lụt và các đợt rét đậm rét hại ở Bắc Trung Bộ và duyên hải Bắc Trung Bộ, xâm nhập mặn ở ĐBSCL và hạn hán ở Tây Nguyên. Do đó, việc tạo điều kiện cho nông nghiệp Việt Nam chuyển đổi sang một con đường bền vững hơn, carbon thấp là cần thiết và ngày càng cấp bách.

Giải pháp chính giúp cắt giảm lượng khí thải trong ngành lúa gạo phù hợp với Việt Nam là cải thiện hệ thống tưới tiêu, quản lý nước nông nghiệp (AWD), và quản lý đầu vào, áp dụng 1 phải 5 giảm (phải sử dụng hạt giống được chứng nhận; giảm lượng hạt giống, phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng nước được sử dụng và giảm thất thoát sau thu hoạch).

Việc mở rộng áp dụng các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính sẽ đóng góp đáng kể cho mục tiêu giảm phát thải chung của quốc giaViệc mở rộng áp dụng các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính sẽ đóng góp đáng kể cho mục tiêu giảm phát thải chung của quốc gia

Báo cáo nhấn mạnh, việc thúc đẩy áp dụng các công nghệ này để có thể bao phủ 1,9 triệu ha sản xuất lúa ở ĐBSCL và đồng bằng sông Hồng trong thập kỷ tới là một giải pháp quan trọng để giảm phát thải KNK từ lúa gạo. Bên cạnh đó, một số giải pháp quan trọng khác như: Mở rộng quy mô sử dụng các công nghệ kỹ thuật số thích hợp; chuyển từ độc canh sản xuất lúa ở những vùng đất không thuận lợi/không phù hợp sang các mặt hàng khác như nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm, hay trồng trái cây và rau màu; thúc đẩy các thực hành sau thu hoạch bền vững như giảm đốt rơm rạ/trấu, cải thiện cơ sở hạ tầng sấy và xay lúa, giảm cường độ sử dụng năng lượng không thể tái sinh.

Trong 5 lĩnh vực chính sách từ ngắn hạn đến trung hạn để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang lúa gạo carbon thấp, bao gồm đảm bảo tính nhất quán của chính sách cũng như việc điều chỉnh kế hoạch-ngân sách, định hướng lại các công cụ chính sách và chi tiêu công, thúc đẩy đầu tư công, cải thiện thể chế và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân và các bên liên quan khác tham gia.

Việc thúc đẩy áp dụng các công nghệ này để có thể bao phủ 1,9 triệu ha sản xuất lúa ở ĐBSCL và đồng bằng sông Hồng trong thập kỷ tới là một giải pháp quan trọng để giảm phát thải KNK từ lúa gạo. Bên cạnh đó, một số giải pháp quan trọng khác như: Mở rộng quy mô sử dụng các công nghệ kỹ thuật số thích hợp; chuyển từ độc canh sản xuất lúa ở những vùng đất không thuận lợi/không phù hợp sang các mặt hàng khác như nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm, hay trồng trái cây và rau màu; thúc đẩy các thực hành sau thu hoạch bền vững như giảm đốt rơm rạ/trấu, cải thiện cơ sở hạ tầng sấy và xay lúa, giảm cường độ sử dụng năng lượng không thể tái sinh.

Ở tầm bao quát, ngành nông nghiệp cần thúc đẩy việc áp dụng công nghệ nông nghiệp thông minh với khí hậu (CSA). Mở rộng quy mô các giải pháp này sẽ làm giảm hơn nữa lượng khí thải đồng thời mang lại cùng lúc nhiều lợi ích, trong đó, có việc xây dựng khả năng chống chịu và thích ứng của nông dân đối với tác động của biến đổi khí hậu.

Cũng theo bà Carolyn Turk, Ngân hàng Thế giới đã đồng ý phát triển một dự án mới ở Đồng bằng sông Cửu Long nhằm hỗ trợ giải quyết các thách thức về quản lý tài nguyên nước và xây dựng sinh kế nông nghiệp trong thời kỳ biến đổi khí hậu. Trong thời gian tới, trên cơ sở báo cáo này, WB sẽ phối hợp với các bên liên quan cùng thiết kế chương trình tích hợp, dài hạn về khả năng chống chịu với khí hậu và phát triển bền vững cho Đồng bằng sông Cửu Long./.

Phạm Hoa (t/h)

BẢN DESKTOP